I ốt là nguyên tố vi lượng cần thiết cho cơ thể trẻ
Khi bị thiếu I ốt sẽ bị chậm phát triển thần kinh, giảm khả năng lao động và học tập, giảm trí thông minh, gây giảm năng lực học tập (IQ giảm 10-15 điểm), giảm trí nhớ, chậm phát triển thể chất, bướu cổ, rối loạn chức năng sinh sản (xảy thai, thai chết lưu, đẻ non…), cân nặng sơ sinh thấp, và tăng tỷ lệ tử vong và bệnh tật ở trẻ em. Tất cả mọi người dân, mọi lứa tuổi đều có thể bị thiếu I ốt nhưng các đối tượng có nguy cơ cao hơn gồm có trẻ em, phụ nữ mang thai và bà mẹ cho con bú
BS Nguyễn Thị Huyền viết trên đặc san Dinh dưỡng Sức khỏe & Đời sống của Viện Dinh dưỡng Quốc gia, I ốt có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của trẻ. Nhu cầu I ốt của cơ thể chỉ tính bằng microgram (mcg) nhưng nếu thiếu nhiều bệnh lý quan trọng sẽ xuất hiện, đặc biệt là bệnh lý tuyến giáp.
Tất cả mọi người dân, mọi lứa tuổi đều có thể bị thiếu I ốt nhưng các đối tượng có nguy cơ cao hơn gồm có trẻ em, phụ nữ mang thai và bà mẹ cho con bú.
I ốt là vi chất quan trọng để tuyến giáp tổng hợp các hormone điều chỉnh quá trình phát triển của hệ thần kinh trung ương, phát triển hệ sinh dục và các bộ phận trong cơ thể như tim mạch, tiêu hóa, da – long – tóc – móng, duy trì năng lượng cho cơ thể hoạt động…
I ốt tham gia tạo hormone tuyến giáp trạng T3 (tri-iodothyronin) và T4 (thyroxin) bằng các liên kết đồng hóa trị. Các hormon này đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa phát triển cơ thể, tăng quá trình chuyển hóa tới 30%, tăng sử dụng oxy và làm tăng nhịp tim.
Hoạt động của hormon tuyến giáp trạng là tối cần thiết cho phát triển bình thường của não bộ. Chúng làm tăng quá trình biệt hóa của tế bào não và tham gia vào chức năng của não bộ. Nếu thiếu I ốt dẫn đến suy giáp do không đủ hormone giáp trạng và gây khuyết tật não, rối loạn chức năng của não.
Trên 75% lượng I ốt tập trung ở tuyến giáp và được sử dụng cho tổng hợp hormone giáp trạng, phần còn lại phân bố ở các mô khác như thận, tuyến vú, dịch tiêu hóa hay nước bọt… Ngoài ra, I ốt còn có vai trò trong việc chuyển hóa beta – carotene thành vitamin A, tổng hợp protein hay hấp thụ đường trong ruột non.
Trẻ thiếu I ốt thường xuyên, tương tự với kẽm sẽ có những ảnh hưởng khó lường. Thiết I ốt sẽ dẫn tới giảm hoạt động tuyến giáp, được đặc trưng bởi rụng long, táo bón, vàng da, sợ lạnh, tăng cholesterol… Ở trẻ em, nếu được cung cấp bổ sung I ốt kịp thời sẽ cải thiện được hoạt động trí tuệ và không có dấu hiệu của giảm hoạt động giáp. Trẻ thời kỳ niên thiếu bị thiếu I ốt thì sự phát triển thể chất cũng như trí não không bình thường, có thể bị thiểu năng trí tuệ, chậm lớn…
Bướu cổ và đần độn là hai biểu hiện hay gặp nhất liên quan đến thiếu I ốt. Bướu cổ có thể xuất hiện ở bất kỳ giai đoạn nào trong cuộc đời.
Phụ nữ mang thai thiếu I ốt, sự phát triển bào thai ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là bộ não của đứa trẻ. Người ta đã chứng minh, thiếu I ốt ở mẹ từ mức trung bình đến nặng có thể gây chậm phát triển não của thai nhi và sinh ra đứa trẻ chậm phát triển trí tuệ, thậm chí đần độn hoặc mang khuyết tật.
Phòng ngừa thiếu I ốt
Với trẻ dưới 6 tháng tuổi bú sữa mẹ hoàn toàn thì mẹ nên ăn nhiều hải sản và dung muối I-ốt hoặc nước mắm có I-ốt để nguồn dưỡng chất quan trọng này tiết qua sữa bổ sung cho bé.
Với trẻ ăn dặm thì cần bổ sung I ốt qua đường ăn uống hàng ngày. I ốt có nhiều trong hải sản: cá, tôm, cua và có nhiều trong các loại rau như rong, tảo biển, rau câu, rau xanh… Trứng và các thực phẩm từ sữa cũng là một nguồn cung cấp I ốt khá tốt. Vì vậy các bà mẹ chú ý thêm vào thực đơn cho bé từ nguồn thức ăn giàu I ốt này.
Chế độ ăn của người mẹ nghèo I ốt trong thời gian có thai sẽ ảnh hưởng tới năng lực trí tuệ của đứa con sau này.
Sử dụng muối I ốt thay cho muối thường trong ăn uống và chế biến thức ăn hàng ngày là đủ nhu cầu I-ốt cho cơ thể và phòng được các rối loạn do thiếu I-ốt.
Vai trò của I ốt với phụ nữ mang thai
Theo Viện Dinh dưỡng Quốc gia, Iốt là một vi chất tự nhiên, là nguyên liệu tham gia vào quá trình tổng hợp thyroxin là một hormone tuyến giáp. Hormone thyroxin cần thiết cho sự phát triển thể chất và tinh thần của trẻ em và giúp điều hòa chuyển hóa năng lượng. Khi thiếu I ốt, việc sản xuất thyroxin bị giảm sút, tuyến giáp phải hoạt động bù dưới sự kích thích của hormone tuyến yên nên phì to dần. Tuy nhiên, nếu thiếu I ốt quá trầm trọng thì có thể gây thiểu năng tuyến giáp. Vấn đề nghiêm trọng nhất của thiếu I ốt là ảnh hưởng tới sự phát triển của thai nhi.
Thiếu I ốt có thể gây khiếm khuyết trí não cho trẻ em. Chế độ ăn của người mẹ nghèo I ốt trong thời gian có thai sẽ ảnh hưởng tới năng lực trí tuệ của đứa con sau này. Ở những vùng có tỷ lệ bướu cổ cao, ngoài một số trẻ bị thiểu năng trí tuệ do thiếu I ốt còn có trẻ có khả năng phát triển trí tuệ kém.
Những phụ nữ có thai có thể phải đối mặt với nguy cơ sinh ra trẻ thiểu năng trí tuệ, chết khi sinh ra hoặc bản thân họ bị sảy thai, nếu tiêu thụ quá ít Iốt. Đó là kết luận của một nghiên cứu trên 400 phụ nữ, do Viện Sức khỏe trẻ em Tayside (Anh) tiến hành. Giáo sư Hume, trưởng nhóm nghiên cứu cho biết, I ốt cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của bào thai. Nhiều cuộc nghiên cứu khác đã chứng minh rằng trẻ thiếu I ốt có chỉ số thông minh thấp và phát triển trí tuệ chậm hơn so với những trẻ khác.Cá, rong biển, sữa và các sản phẩm từ sữa là nguồn cung cấp I ốt rất tốt. Ở Việt Nam, I ốt cũng được bổ sung vào muối, bột nêm góp phần hạn chế tình trạng thiếu I ốt của người dân.
Sử dụng muối iốt như muối thường. Dùng muối iốt để nấu ăn, chấm hoa quả, chấm thịt... ướp cá, ướp các loại thực phẩm, dùng muối iốt để muối dưa, cà và chế biến các loại thức ăn khác rất tốt.
Khi nấu ăn, có thể cho muối iốt vào trước, trong, sau khi nấu đều được vì hàm lượng iốt trộn vào muối đã được tính toán đảm bảo lượng iốt mất đi trong quá trình bảo quản, lưu thông và khi chế biến hoặc nấu nướng vẫn cung cấp đủ iốt cho cơ thể con người.
Bảo quản muối iốt trong hộp hay lọ kín, để ở nơi khô ráo, mát không bị ánh nắng chiếu vào muối (tránh để muối quá gần bếp lửa). Sử dụng muối I ốt là biện pháp hữu hiệu nhất phòng chống thiếu I ốt, khuyến khích người dân sử dụng muối I ốt, lồng ghép nội dung giáo dục sử dụng muối I ốt và phòng chống thiếu I ốt vào các chương trình giáo dục dinh dưỡng đang triển khai tại xã/phường.